Chương IP trong TPP – Phần 2 – Nhãn hiệu

Như các bạn đã biết thì toàn văn Hiệp định TPP  đã được công bố ngày 5/11 vừa qua, các bạn có thể xem toàn văn trên trang thông tin chính thức của Bộ Công thương tại đây.

Tiếp tục bài trước, bài này sẽ giới thiệu về một số điểm thay đổi mà mình nghĩ là quan trọng trong chương IP, trước tiên là về nhãn hiệu. Xin các bạn lưu ý đây không phải là một bài nghiên cứu, mà mình chỉ tóm tắt những ý chính theo quan điểm của mình, chỉ dùng để tham khảo.

  1. Nhãn hiệu âm thanh, nhãn hiệu mùi

Theo Điều 18.18 thì các quốc gia thành viên sẽ không được quy định nhãn hiệu bắt buộc phải “nhìn thấy được”, hoặc không được từ chối với lý do nhãn hiệu gồm âm thanh, cũng như sẽ ghi nhận việc đăng ký nhãn hiệu mùi. Nhãn hiệu âm thanh thì không còn là điều quá xa lạ trên thế giới, chẳng hạn nhạc chuông huyền thoại của Nokia đã được đăng ký nhãn hiệu tại nhiều quốc gia, hay đoạn nhạc mở đầu của Twenty Century Fox.

Nhạc chuông Nokia

Twenty Century Fox

Tại Việt Nam thì do quy định của Luật Sở hữu trí tuệ nhãn hiệu là “dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều mầu sắc”, chính vì vậy mà nhãn hiệu âm thanh, mùi, chuyển động… đều không đăng ký được tại Việt Nam.

Việc TPP quy định như vậy là một tín hiệu đáng mừng, bởi việc đăng ký nhãn hiệu ở Việt Nam hiện còn khá hẹp, phàn lớn dừng ở loại nhãn hiệu truyền thống như chữ, hình… chứ chưa thật sự mở rộng sang các loại nhãn hiệu “nhìn thấy được” khác như một loại màu sắc cho một loại hàng hóa cụ thể, hay video.

  1. Nhãn hiệu nổi tiếng

Theo quy định Luật Sở hữu trí tuệ thì nhãn hiệu nổi tiếng là “ nhãn hiệu được người tiêu dùng biết đến rộng rãi ở Việt Nam”, và có 8 tiêu chí được dùng để đánh giá một nhãn hiệu nổi tiếng, quy định tại Điều 75. Tuy vậy, theo mình được biết thì từ trước đến nay chỉ có duy nhất 1 lần 1 nhãn hiệu được công nhận là nhãn hiệu nổi tiếng tại Việt Nam, và là theo phán quyết của tòa án chứ không phải Cục Sở hữu trí tuệ. Cục Sở hữu trí tuệ tính đến thời điểm này vẫn chưa công nhận bất kỳ nhãn hiệu nào là nhãn hiệu nổi tiếng cả, tất cả các nhãn hiệu hiện nay dưới con mắt của Cục đều được đối xử như nhau.

TPP có một điều về nhãn hiệu nổi tiếng (Điều 18.22), theo đó các bên sẽ xem xét nghiên cứu Joint Recommendation Concerning Provisions on the Protection of Well-Known Marks (1999) (dịch nôm là Khuyến nghị chung liên quan đến các điều khoản bảo vệ nhãn hiệu nổi tiếng) của WIPO. Các bạn có thể tham khảo tại đây. Ngoài ra theo mình được biết thì INTA – International Trademark Association cũng đang rất quan tâm đến việc ghi nhận nhãn hiệu nổi tiếng tại Việt Nam, và sắp tới họ có thể sẽ triển khai dự án này. Nếu đúng y bong theo quy định hiện hành của pháp luật thì việc dùng những nhãn hiệu như CocaCola, Nike.. cho những sản phẩm mà không liên quan đến các sản phẩm nhãn hiệu này đã đăng ký (giống ví dụ dưới đây) thì không biết khép vào vi phạm gì, bởi nếu bảo là cạnh tranh không lành mạnh thì không đúng, vì các nhãn hiệu kia cũng không kinh doanh sản phẩm này để đáp ứng tiêu chí “cạnh tranh”.

34b072af72ea64

(ảnh này lấy từ trang tinhte)

  1. Công khai trên Internet

Điều 18.9 quy định các Bên sẽ nỗ lực công bố các đơn yêu cầu cấp bằng lên Internet. Đối với các bằng độc quyền đã được cấp, những thông tin cần thiết sẽ được đưa lên Internet.

Một điều trong chương này mình thấy khá hay là các Bên sẽ (có thể) cho phép chủ đơn thực hiện một số thủ tục điện tử, chẳng hạn như nộp đơn, thông báo kết quả từ chối hoặc hủy bỏ. Hiện theo mình biết thì Cục cũng đang có database dữ liệu, tuy vậy thường xuyên không truy cập được. Các thông tin được cấp nhật 1 tháng 1 lần, còn khá sơ sài. Hy vọng điều này sẽ được cải thiện sau khi áp dụng TPP.

  1. Đăng ký li xăng nhãn hiệu

Đây có lẽ là điều mình thấy thay đổi rõ ràng nhất. Điều 18.10 quy định các bên không được phép quy định đăng ký li-xăng nhãn hiệu (trademark license) bắt buộc để thiết lập hiệu lực của li-xăng, hoặc để bên nhận li-xăng có thể thực thi nhãn hiệu này.

Hiện Luật Sở hữu trí tuệ quy định một điều mà theo cá nhân mình thì cực kỳ hạn chế cho bên nhận chuyển nhượng, đó là:

Điều 148. Hiệu lực của hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp

  1. Đối với các loại quyền sở hữu công nghiệp được xác lập trên cơ sở đăng ký theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 6 của Luật này, hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp chỉ có hiệu lực khi đã được đăng ký tại cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp.
  2. Đối với các loại quyền sở hữu công nghiệp được xác lập trên cơ sở đăng ký theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 6 của Luật này, hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp có hiệu lực theo thỏa thuận giữa các bên, nhưng chỉ có giá trị pháp lý đối với bên thứ ba khi đã được đăng ký tại cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp.

Theo mình được biết điều này được đặt ra nhằm tránh các trường hợp công ty nước ngoài thông qua các hợp đồng li-xăng để tiến hành chuyển giá, và bên thứ ba ở đây nhằm chỉ cơ quan thuế. Tuy nhiên trên thực tế việc bắt buộc đăng ký này gây ra vô cùng nhiều khó khăn. Một công ty nước ngoài tại Việt Nam có thể có đến hàng nghìn nhãn hiệu, và mỗi tháng danh mục nhãn hiệu này đều thay đổi, như đăng ký thêm, hết hạn… Như vậy nếu muốn thực thi quyền liên quan đến các nhãn hiệu này thì phải tiến hành đăng ký, đăng ký xong mới được thực thi. Việc đăng ký này phải diễn ra hàng tháng để đảm bảo danh mục nhãn hiệu được cập nhật đầy đủ. Rõ ràng càng nhiều thì lại càng tốn thời gian, tốn tiền, gây ra những lãng phí không cần thiết cho xã hôi.

Về nguyên tắc thì việc hai bên ký hợp đồng li-xăng xong và phải đi đăng ký để có hiệu lực với bên thứ ba giống như bạn đi mua cái xe máy, tiền bạc trao tay hết rồi, và bạn đang đi làm thủ tục đăng ký. Nếu trong thời gian chưa đăng ký xong thì ai cũng được thoải mái xài cái xe của bạn, do không bên thứ ba nào công nhận cho bạn giao dịch giữa bạn và người bán. Nghiện hút xì ke, ma cô xóm chợ có thể thoải mái xài chung xe với bạn. Lúc đó muốn xử lý thì bạn lại phải lạy lục người bán xe, mà lúc đó người ta bảo tao bán cho mày rồi, mày tự mà xử lý chứ thì bạn cũng chỉ biết khóc ròng. Mà thời gian đăng ký ở Cục Sở hữu trí tuệ có phải ngắn ngủi gì cho cam, mình biết có trường hợp kéo dài đến hơn 1 năm trời. Khi bạn đăng ký xong, có đủ quyền yêu cầu xử lý rồi thì chắc gì cái xe đã còn nguyên vẹn cho bạn sử dụng. Trong khi đó hợp đồng mua bán giữa hai bên bạn vẫn phải thực hiện đủ, rõ ràng quyền của bên nhận chuyển nhượng bị hạn chế rất nhiều.

Vậy nên nếu bỏ được yêu cầu đăng ký này thì mình rất hoan nghênh, có điều TPP không nói gì về việc bãi bỏ yêu cầu đăng ký đối với các tài sản sở hữu công nghiệp khác, như kiểu dáng công nghiệp, bằng sáng chế… Hy vọng các đối tượng này cũng sẽ được loại bỏ như nhãn hiệu.

  1. Cybersquatting

Về vấn đề tên miền, các Bên sẽ nỗ lực áp dụng quy chế Uniform Domain-Name Dispute-Resolution của ICANN, hoặc một cơ chế đơn giản tương tự để giải quyết những tranh chấp liên quan đến tên miền. Như vậy thì các trường hợp như Khoa bánh ít có lẽ sẽ không còn cơ hội xuất hiện nữa. Ngoài lề chút, UDRP là đề tài assignment đầu tiên của mình khi học về IP, nên mình vẫn có ấn tượng tốt về chính sách này. Có điều mình chưa thực tế làm một trường hợp như vậy bao giờ, nên cũng không biết cụ thể tại Việt Nam hiện đang giải quyết theo cơ chế gì.

Đây là 5 điểm liên quan đến nhãn hiệu trong chương SHTT của TPP mà mình thấy có ảnh hưởng rõ ràng nhất/ ấn tượng nhất với mình. Phần tiếp theo mình sẽ nói về các đối tượng còn lại trong chương này, gồm patent, design và đặc biệt là copyrights.

Leave a Reply

Fill in your details below or click an icon to log in:

WordPress.com Logo

You are commenting using your WordPress.com account. Log Out /  Change )

Twitter picture

You are commenting using your Twitter account. Log Out /  Change )

Facebook photo

You are commenting using your Facebook account. Log Out /  Change )

Connecting to %s